Dược học Phenibut

Dược lực học

GABA và các chất tương tự tại các mục tiêu sinh học[12]
Hợp chấtGABABGABAA
GABA0,080,12
GHB> 100> 100
GABOB1,101,38
Phenibut9,6> 100
4-F-phenibut1,70> 100
Baclofen0,13> 100
  (R)-Baclofen0,13> 100
  (S)-Baclofen74,0> 100
Các giá trị là IC50 (μM) trong não chuột cống.

Phenibut hoạt động như một chất kích hoạt đầy đủ của thụ thể GABAB, tương tự như baclofen.[13][14] Nó có ái lực với thụ thể GABAB thấp hơn 30-68 lần so với baclofen, và tương ứng được sử dụng với liều cao hơn nhiều so với baclofen.[13] (R)-Phenibut có ái lực với thụ thể GABAB cao hơn 100 lần so với (S)-Phenibut; do đó, (R)-Phenibut là chất đồng phân đối quang hoạt động tại thụ thể GABAB.[15] Ở nồng độ rất cao, phenibut cũng hoạt động như một chất kích hoạt của thụ thể GABAA, là thụ thể chịu trách nhiệm cho các hoạt động của benzodiazepine, barbiturat và rượu.[16]

Phenibut và các chất tương tự tại các mục tiêu sinh học[8][9]
Hợp chấtTĐV α2δGABAB
PhenibutND177
  (R)-Phenibut2392
  (S)-Phenibut39>1.000
Baclofen1566
Gabapentin0,05>1.000
Các giá trị là Ki (μM) trong não chuột cống.

Phenibut cũng liên kết và ngăn chặn các VDCC chứa tiểu đơn vị α2δ, tương tự như gabapentinpregabalin, và vì thế nó là một gabapentinoid.[8][17] Cả (R)-Phenibut và (S)-Phenibut biểu thị tác động này với ái lực tương tự (K i tương ứng bằng 23 và 39  μM).[8] Ngoài ra, (R)-Phenibut có ái lực tại vị trí này gấp 4 lần so với thụ thể GABAB (Ki = 92 μM), trong khi (S)-Phenibut liên kết không đáng kể với thụ thể GABAB (Ki > 1 mM).[8] Do đó, dựa theo kết quả của nghiên cứu này, phenibut dường như có hiệu nghiệm lớn hơn nhiều trong tương tác của nó với các VDCC chứa tiểu đơn vị α2δ so với thụ thể GABAB (từ 5 đến 10 lần).[8] Vì lý do này, các tác động của phenibut với tư cách là một chất chặn kênh canxi phụ thuộc điện thế chứa tiểu đơn vị α2δ hay một gabapentinoid có thể là cơ chế hoạt động chính thực sự của nó và điều này có thể giải thích sự khác biệt giữa phenibut và chất tương đối gần với nó là baclofen (chất mà trái lại về cơ bản có hoạt tính không đáng kể như một gabapentinoid; Ki = 6 μM với thụ thể GABAB và Ki = 156 μM với các VDCC chứa tiểu đơn vị α2δ, hay chênh lệch 26 lần về ái lực).[8][9]

(R)-Phenibut và (S)-Phenibut đã được thử nghiệm tại 85 vị trí liên kết ở nồng độ 100 μM không có hoạt tính (ức chế liên kết dưới 20%) được quan sát, ngoại trừ ở tiểu đơn vị α2δ của VDCC và thụ thể GABAB.[18] Trong nghiên cứu này, (R)-Phenibut và (S)-Phenibut có các giá trị IC50 để ức chế liên kết gabapentin tương ứng là 87,1 μM và 91,0 μM (Ki = 60 μM).[18] IC50 cho gabapentin trong cùng điều kiện là 0,09 μM.[18] Các nhà nghiên cứu cũng đánh giá phenibut tại thụ thể GABAB và tìm thấy giá trị Ki là 57 μM đối với (R)-Phenibut, khoảng 2 lần nồng độ đó (~ 114 μM) với phenibut hỗn hợp racemic.[18]

Dược động học

Rất ít thông tin đã được công bố về dược động học lâm sàng của phenibut.[5] Thuốc được ghi nhận là hấp thu tốt.[4] Nó phân bố rộng khắp cơ thể và ngang qua hàng rào máu não.[4] Khoảng 0,1% liều phenibut chỉ định được báo cáo là xâm nhập vào não, điều này được cho là xảy ra ở mức độ lớn hơn nhiều ở người trẻ và người già.[4] Theo dõi liều 250 mg duy nhất ở những người tình nguyện khỏe mạnh, thời gian bán thải của nó là khoảng 5,3 giờ và thuốc được thải trừ phần lớn (63%) qua nước tiểu dưới dạng không thay đổi.[5] Ở động vật, sinh khả dụng tuyệt đối của phenibut là 64% sau khi uống và tiêm tĩnh mạch, nó dường như trải qua quá trình chuyển hóa tối thiểu hoặc không ở nhiều loài, và nó vượt qua hàng rào máu não ở mức độ lớn hơn đáng kể so với GABA.[5] Các chất chuyển hóa của phenibut được báo cáo là không hoạt động (bất hoạt).[4]

Một số thông tin hạn chế đã được mô tả về dược động học của phenibut ở những người dùng tiêu khiển với liều cao hơn nhiều (ví dụ, 1–3 gam) so với liều thông thường trong lâm sàng.[3][19] Ở những người này, sự khởi phát tác động của phenibut được báo cáo là từ 2 đến 4 giờ theo đường uống và 20 đến 30 phút theo đường đặt hậu môn, các tác động đỉnh điểm được mô tả là xảy ra từ 4 đến 6 giờ sau khi uống và tổng thời gian cho đường uống đã được báo cáo là từ 15 đến 24 giờ (hay khoảng 3 đến 5 lần thời gian bán rã).[3]